Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Người Viết Mướn


Người Viết Mướn
Tiểu Tử 2013/04/23

Nhà văn Tiểu Tử:

Nhà văn Tiểu Tử, tên thật là Võ Hoài Nam. Ông là con trai duy nhứt của giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường trung học Pétrus Trư
ơng Vĩnh Ký, Sài Gòn. Ông sanh ngày 19 tháng 7 năm 1930 tại quận Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. Ông tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, Pháp quốc năm 1955. Ông về Việt Nam, dạy tại trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký niên khóa 1955-1956. Tháng 10 năm 1956, ông vào làm việc tại hãng xăng Shell Việt Nam cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Năm 1979, ông vượt biên và định cư tại Pháp. Sau đó, ông nhận làm việc cho công ty Đường Mía của nhà nước tại Côte d’Ivoire, Phi Châu, từ 1979 đến 1982. Ông qua làm hãng xăng Shell Côte d’Ivoire cho đến khi về hưu (1982-1991). Hiện ông đang nghỉ hưu tại Paris, Pháp quốc.

***
Người Viết Mướn




 
Ở chợ Plateau thành phố Abidjan (thủ đô cũ của xứ Côte d'Ivoire, Phi Châu) ai cũng biết ông già viết mướn đó. Người ta gọi ông là "l'écrivain chinois " (ông Tàu viết mướn).
Xứ Côte d'Ivoire – thuộc vùng Phi Châu Da Đen – ngày xưa là thuộc địa của Pháp. Dân bản xứ đi học bằng tiếng Pháp. Và vì họ gồm nhiều bộ tộc, mỗi bộ tộc nói một thổ ngữ, nên họ phải dùng tiếng Pháp để hiểu nhau. Về sau, khi đã độc lập rồi, trường vẫn dạy bằng tiếng Pháp và ngôn ngữ chánh trong dân gian vẫn là tiếng Pháp. Những người ít học hay thất học thì nói "tiếng bồi", nghĩa là tiếng Pháp không đúng văn phạm. Mấy bà buôn bán ở chợ Plateau nói trên thuộc vào thành phần này. Nhiều bà có con cái "đi làm ăn" ở Pháp hay ở Bỉ, lâu lâu cần xin gì hay cần nhắn gì, họ phải nhờ người khác viết cho cái thư. Ngoài ra, có nhiều người cần viết đơn từ thưa gởi nhưng không đủ trình độ để viết đúng từ ngữ hành chánh nên nhờ viết dùm. Do đó mới có cái nghề viết mướn.
Ở khu chợ Plateau, trước đây, chỉ có một người đàn ông trung niên người bản xứ làm nghề này. Anh ta hành nghề dưới hàng hiên khu phố nhìn qua chợ, nằm cách chợ một con đường. Chỗ hắn ngồi là một bức tường nhỏ nằm giữa hai cửa hàng bán radio của người libanais. "Dụng cụ" của anh ta là cái máy đánh chữ loại xách tay đặt trên bàn gỗ nhỏ. Anh ta ngồi trên ghế thấp vừa tầm với cái bàn, nhưng vì anh ta lớn con chân dài nên khi đánh máy anh ta phải cho hết hai chân xuống dưới bàn đưa thẳng về phía trước lòi ra một khúc, trông giống như anh ta ôm cái bàn vào lòng! Còn "khách hàng" thì hoặc đứng hoặc ngồi xổm cạnh hai bàn chân to xù mang dép Nhựt của hắn, tỉ tê kể những gì mà họ muốn để trong thư. Anh ta gõ máy bằng hai ngón tay nhưng gõ khá nhanh, khách kể đến đâu hắn gõ theo đến đấy. Đánh xong thư, khách hàng đưa cho hắn mảnh giấy nhỏ trong đó có ghi rõ địa chỉ của người nhận thư, hắn lấy trong ba lô để dưới chỗ hắn ngồi một phong bì có dán tem sẵn, đánh máy địa chỉ, cho thư vào rồi le lưỡi liếm keo dán lại. Người khách hàng chỉ còn có cho thư vào thùng thư đứng ở góc đường gần đó. Dĩ nhiên, khi hắn tính tiền, hắn tính cả tiền giấy, phong bì, tem…Thư gởi đi Pháp hay đi Bỉ đều cùng một giá. Cho nên đã thành lệ, sau vài câu chào hỏi, khách hàng cứ đặt tiền trước lên bàn rồi đợi hắn sửa bộ kéo bàn vào lòng với cái máy đánh chữ lúc nào cũng "ngậm" sẵn một tờ giấy, là bắt đầu tỉ tê kể lể…Còn đơn từ thì hắn dùng phong bì không có tem, bởi vì khách hàng mang tay đến nộp thẳng cho cơ quan liên hệ. Loại "đơn từ" này, hắn vẫn lấy bằng giá với "thư nhà", bởi vì, theo hắn giải thích, viết cho hành chánh khó gấp mấy lần viết cho thân nhân. Bớt con tem nhưng thêm nhiều công suy nghĩ!
Một hôm, có ông già Á Đông – ốm nhom, già khú – đi lang thang với điếu thuốc trên môi, ngang qua đó nghe tiếng đánh máy lọc cọc nên tò mò đứng lại nhìn. Đợi anh đen làm xong công việc, ông già mới chào hỏi làm quen. Anh đen rất ngạc nhiên vì ông ta nói tiếng Pháp rất trôi chảy rành rọt, không giống những người Á đông mà anh đã từng gặp hay quen biết. Ông già ghé đít ngồi lên bệ thềm gần đó, hỏi:
- Ông làm nghề gì vậy?
Anh đen nhăn răng cười:
- Viết thư dùm người ta, người ta trả tiền. Ông không thấy bà hồi nãy cầm phong bì đi sao?
- Thấy. Nhưng mà hồi nãy hai người nói với nhau bằng thổ ngữ nên tôi không hiểu.
Ngừng một chút, ông già lại hỏi:
- Làm ăn có khá không?
- Ố! Cũng tạm được.
Hắn chỉ qua bên chợ:
- Khách hàng của tôi là mấy bà buôn bán ở bên kia. Họ không biết chữ, mà con cái họ thì đi làm công bên Pháp bên Bĩ hết. Thành ra, ngày nào cũng viết dùm vài cái thư, lai rai… Với lại ở xứ này, người ta hay thưa gởi kiện cáo lắm nên có công việc làm hoài!
Rồi hắn nhìn ông già từ đầu đến chân:
- Còn ông? Ông làm nghề gì ở đây?
- Già quá đâu có ai mướn. Ở không, đi lang thang.
Anh đen lại nhìn ông già ra vẻ tội nghiệp:
- Rồi lấy gì sống
- Sống nhờ con. Con gái ở nhà làm nem. Thằng em nó đạp xe đi bán. Khá chật vật!
- Ông người Tàu hả?
- Không. Tôi người Việt Nam.
Nói xong, ông già thở dài. Tội nghiệp cho cái xứ Việt Nam của ông! Nhược tiểu đến mức độ mà người dân khi ra ngoại quốc cứ bị thiên hạ gọi là người Tàu!
Ông già đưa bao thuốc lá mời anh đen:
- Hút một điếu chơi.

- Cám ơn. Tôi không biết hút thuốc.

Ngừng một chút, anh ta hỏi:

- Nhà ông ở đâu ?

- Ở tuốt trên Cocody, gần nhà thờ.

- Xa quá há. Rồi ông đi bằng gì xuống đây ? Xe buýt hả ?

- Đi bằng xe đạp. Đạp xuống thì dễ, đạp về leo dốc mới mệt!
Anh đen lại nhìn ông già một lúc, mới nói:
- Ông nói tiếng Pháp rành quá mà không đi làm việc cũng uổng.
- Già như tôi thì còn làm được gì?
- Tuổi tác ăn nhập gì, trình độ văn hoá mới cần chớ!
Ông già hít mấy hơi thuốc, suy nghĩ. Một lúc sau ông hắng giọng rồi hỏi:
- Ông thấy tôi làm cái nghề viết mướn được không?
Anh đen nhăn răng cười hớn hở:
- Được chớ! Được chớ!
Rồi đề nghị:
- Ông cứ ngồi kế bên đây! Đừng ngại gì hết! Cả khu Plateau chỉ có một mình tôi làm nghề này. Có thêm ông càng vui.
Thấy dễ dàng quá, ông già đứng ngẩn ra, chưa kịp nói lời nào thì anh ta nói tiếp:

- Vậy, sáng mai ông đem máy đánh chữ ra, nghen.
- Tôi không có máy đánh chữ. Tôi viết tay được không?
Giọng anh đen hơi xìu xuống:
- Ồ…cũng không sao. Cứ ra đây đi, rồi tính.
Ông già mừng rỡ, bắt tay anh đen, nói: "Cám ơn! Cám ơn! Ông tốt bụng quá!", rồi xăng xớm đi về chỗ để xe đạp trước ngân hàng gần đó, mở khoá lấy xe phóng lên đạp đi mà nghe như vừa được bơm vào người thêm nhiều sinh lực!
Mấy hôm sau, ông già xin được của hội nhà thờ một cái bàn và ba cái ghế bằng nhôm loại xếp được để đi pique-nique. Ông mua một mớ giấy viết thư, phong bì, tem, bút bi rồi đạp xe đạp chở bàn ghế đến ngồi cạnh anh đen, hành nghề viết mướn. Buổi sáng đó, trước khi rời nhà, ông lẩm bẩm: "Bữa nay đúng là một ngày đẹp trời!"…
Ông già ngồi đã ba hôm, chẳng có một ai đến nhờ viết! " Khách hàng " cứ nhờ anh đen. Thấy vậy, anh ta an ủi:
- Đừng buồn. Từ từ rồi sẽ có khách. Tại ông không có máy đánh chữ nên người ta không biết đó thôi.

Một hôm, có hai bà cùng đến một lúc. Anh đen tiếp một bà rồi nói với bà kia:

- Nếu bà gấp thì bước qua ông đồng nghiệp của tôi đây, ổng giúp cho. Ổng viết tay, nhưng cần gì! Viết tay hay đánh máy cũng vậy thôi! Điều cần thiết là viết làm sao cho người đọc hiểu.

Bà khách ngần ngừ một lúc rồi bước qua ngồi lên cái ghế xếp trước mặt ông già. Như thông lệ, bà ta đặt tiền lên bàn rồi bắt đầu kể lể bằng thứ tiếng Pháp không có văn phạm. Ông già ngồi chống càm, lắng tai nghe.

Thấy ông viết mướn không viết gì hết, bà khách ngừng kể, lấy làm lạ nhìn ông:

- Sao ông không viết?

- Thưa bà, tôi đang nghe bà kể, đây.

Bà ta chỉ anh đen :

- Sao kỳ vậy? Ông làm không giống anh này! Với anh ta, khi tôi bắt đầu nói là anh ta bắt đầu gõ. Còn ông thì không nhúc nhích gì hết!

Ông già phì cười, giải nghĩa chầm chậm:

- Xin lỗi. Tôi phải nghe bà kể hết những gì bà muốn nói cho người con của bà, rồi tôi mới sắp xếp câu văn để viết. Bà biết không, viết thư phải viết cho mạch lạc thì người con của bà mới hiểu được hết cái ý của bà, bà hiểu không?

Bà khách ngần ngừ rồi gật đầu. Ông già đốt điếu thuốc, nói tiếp: "Bây giờ, xin bà kể lại. Từ từ kể lại, tôi nghe". Bà khách liếc nhìn ông rồi nhìn vội xuống hai bàn chân của bà, thấp giọng kể… Bà khổ lắm, buôn bán ế ẩm, con dâu mang bầu đứa thứ năm gần sanh mà cứ đau rề rề, mấy đứa cháu nội đi mót khoai mót củ nhưng không đủ ăn, bà đã gởi ba cái thư xin tiền thằng con, xin nó thương vợ thương con của nó nheo nhóc, chắc thư đã đi lạc nên không thấy hồi âm, bà khổ lắm, không biết thằng con ở bên Pháp còn sống hay đã bị cái gì rồi… Bà khách ngừng kể, kéo ống tay áo lên lau nước mắt.

Nghe xong, ông già viết mướn, chừng như xúc động, làm thinh hít mấy hơi thuốc dài. Bà khách len lén nhìn ông rồi lại nhìn xuống chân của bà, hai bàn chân cùi đày nằm trong đôi dép cao su rách bươm lấm lem bùn đất. Bà đợi. Suy nghĩ một lúc, ông già mới lấy giấy viết. Lâu lâu, ông ngừng lại nhìn xa xăm qua chợ nằm phía đối diện như để tìm chữ tìm câu. Rồi lại cuối đầu viết tiếp.

Viết xong, ông hỏi:

- Bà cần tôi đọc lại không?

Bà khách chớp chớp mắt, lắc đầu. Bà đưa cho ông địa chỉ của người con, ông chép lên phong bì đã dán tem, cho thư vào dán lại rồi trao cho bà khách. Bà cầm thư lật qua lật lại nhìn như thiếu tin tưởng, rồi đứng lên làm thinh đi về hướng thùng thư đứng ở góc đường. Ông già nhìn theo, lòng nghe chơi vơi như chính ông đang đi gởi thư cho thằng con…

Ngày nào ông già viết mướn cũng mang đồ ra ngồi cạnh anh đồng nghiệp đen, nhưng không phải ngày nào ông cũng có khách. Lâu lâu, có dư người thì anh đen "đẩy" qua cho ông. Anh ta nói đùa: "Đồng nghiệp mà! Phải giúp nhau chớ!" Ông cười chua chát: "Cám ơn! Cám ơn! Nhờ lòng tốt của anh mà tôi cũng vớt vát được một hai người".

Một hôm, anh đen bỗng hỏi:

- Hồi trước ông làm gì ở Việt Nam?

- Buôn bán.

Ông không muốn nói hồi đó ông là chủ hai nhà thuốc tây, khá giàu.

- Rồi tại sao ông đi qua đây vậy?

- Tại làm ăn không được. Tại… tại nghèo.

Ông không muốn nói "cách mạng" đã tịch thâu tài sản của ông, gia đình ông sống cầu bơ cấu bất ở vùng kinh tế mới, vợ ông chết ở trên đó, ông và hai đứa con trốn về thành phố sống chui như bầy chó hoang, ăn nhờ ở đậu…

- Bộ ông có quen ai bên này hả?

Đến đây thì ông già không giấu giếm gì hết :

- Đâu có. Tôi đâu có quen ai. Tôi nghe nói Nhà Nước Côte D' Ivoire dễ dãi và tốt bụng nên tôi viết đại một lá thư dài gởi thẳng cho ông Tổng Thống, trong đó tôi kể hết hoàn cảnh bi đát của tôi. Tôi viết mà không có hy vọng gì hết.

- Ồ… tại ông không biết chớ Tổng Thống Houphouet của tụi này rất bình dân và thương người lắm!

- Bây giờ thì tôi biết. Bởi vì sau bức thư của tôi, tôi nhận được visa và luôn vé
máy bay cho ba cha con tôi nữa. Chuyện thật khó tin.

- Gì mà khó tin? Tổng Thống tụi này hay làm những "cú" ngoạn mục như vậy lắm  Chắc ông viết thư cũng phải hay lắm nên mới làm xúc động "Le Vieux" (Ông Già).

Ở Côte d' Ivoire, dân chúng thương Tổng Thống Houphouet nên khi nói chuyện với nhau họ gọi ông là "Ông Già" một cách trìu mến.

- Hồi đó tôi viết giống như tôi muốn than thở với một người nào đó để cho vơi nỗi thống khổ của mình, chớ đâu dè. Nhận được giấy tờ, tôi như trên trời rớt xuống!

Đến đây, ông già không nói rằng ông đã bán mấy chiếc nhẫn cất giấu từ sau trận nhà nước đánh tư sản, để chạy lo vô hộ khẩu của người bà con xa, rồi chạy lo chiếu khán xuất cảnh v.v…

Ông chỉ nói

- Hồi qua đến phi trường Abidjan, cha con tôi không biết đi đâu ở đâu. Tôi phân trần với chánh quyền sở tại, họ điện thoại gọi hội "Anciens d'Indochine". Nhờ hội này giúp nên tụi tôi mới có căn nhà nhỏ ở Cocody và chút vốn làm nem đi bán dạo, sống lây lất tới bây giờ…

- Tôi nghe nói người Viêt Nam tỵ nạn ở Pháp, ở Mỹ nhiều lắm. Bộ ông không có bạn bè bà con định cư ở các xứ đó sao?

- Có chớ.

- Sao ông không viết thư cho họ? Kẻ đi trước giúp người đi sau là sự thường mà.

Ông thở dài, hít mấy hơi thuốc rồi mới nói:

- Tôi có viết thư chớ. Chỉ viết thăm thôi và báo tin rằng tôi đã đến Côte d'Ivoire. Nhưng không thấy ai trả lời hết.

- Có lẽ không đúng địa chỉ chăng.

- Đúng chớ! Nếu không đúng nó phải được trả về, bởi vì tôi có ghi rõ địa chỉ người gởi mà. Hồi ở Việt Nam người thân của họ cho tôi địa chỉ và tin tức, nói họ bây giờ ổn định và khá lắm.

- Ờ… sao vậy há?

- Chắc họ sợ tôi xin tiền…

Ông cười khẩy một tiếng nghe như ông muốn khạc ra một cái gì chận ngang cổ họng, một cái gì vừa cay đắng vừa nhờm tởm. Ông nhớ lại hồi thời "vàng son", bạn bè bà con của ông tới lui nhà ông ăn nhậu hà rầm, trong số đó có nhiều người đã được ông giúp đỡ cưu mang. Vậy mà bây giờ… Ông hít một hơi thuốc thật sâu rồi nhả khói ra từ từ làm khoảng trống trước mặt bị mờ đi, giống như ông muốn xoá bỏ trong đầu hình ảnh của mấy thằng bạn bè mấy người bà con mà ông vừa nhớ lại… Anh đồng nghiệp da đen suy nghĩ một lúc lâu rồi nghiêng người qua vỗ vai ông vài cái nhè nhẹ, một cử chỉ an ủi tầm thường như vậy mà ông già viết mướn bỗng thấy nó đẹp vô cùng. Ông xoay người qua bắt tay anh đen, không nói gì hết, nhưng ông chắc chắn rằng anh bạn đó hiểu là cái cám ơn của ông già Việt Nam lưu vong…

Một hôm, bà khách hàng đầu tiên của ông già viết mướn mang biếu ông hai trái xoài Caméroun (loại xoài xứ Caméroun ngon nổi tiếng vùng Phi Châu Da Đen) vừa cười vừa nói:

- Tôi cám ơn ông. Nhờ cái thư của ông mà thằng con của tôi hồi tâm. Nó gởi tiền về, kèm theo một cái thư dài. Nó nói nó đọc thư của ông nó khóc quá ! Nó lạy lục xin tôi tha tội cho nó. Nó nói là nó có vợ và một con ở bên Pháp nhưng nó thề sẽ gởi tiền về đều đặn để nuôi tụi này… Tôi vui quá! Vui quá!

Bà ta nói một hơi, nói thứ tiếng Pháp "ba xí ba tú", nhưng trong giọng nói nghe đầy xúc động. Nói xong, bà kéo ống tay áo lên lau nước mắt. Ông già nhớ lại cách đây hơn mươi bữa, bà cũng kéo áo lên lau như vậy sau khi kể lể sự buồn khổ của bà. Thì ra, cái vui cái buồn vẫn giống nhau ở giọt nước mắt!

Ông già mỉm cười :

- Tôi viết mướn, bà trả tiền, có gì đâu mà bà cám ơn?

- Không nhờ cái thư của ông, không biết tụi này còn khổ sở đến đâu. Cám ơn! Cám ơn!

Nói xong, bà đi trở qua chợ. Ông già đưa một trái xoài cho anh đen:

- Anh cầm lấy để chia vui với tôi!

Anh ta cầm trái xoài trên tay nhìn ngắm một lúc rồi nói:

- Làm nghề này đã hơn năm năm, tôi chưa được khách hàng tặng quà bao giờ. Ông mới ra nghề mà được như vầy là ông viết thư phải hay lắm.

- Thì cũng ráng viết vậy thôi.

- Đâu được! Viết mà làm xúc động người đọc đâu phải dễ. Bây giờ tôi hiểu tại sao "Ông Già" đã gởi tặng ông visa và vé máy bay!

Ông già viết mướn đốt điếu thuốc, thở khói một cách sảng khoái. Ông nhớ lại ngày xưa, thuở thiếu thời, ông lúc nào cũng đứng đầu về luận văn, và về sau ra đời, ông cũng có lai rai vài ba truyện ngắn đăng báo này tạp chí nọ. Viết, đối với ông, là để giải tỏa tâm tư, một cách giải tỏa trầm lặng và sâu đậm hơn là nói. Cho nên trong đời ông, ông rất thích viết, nhứt là viết thư cho bạn, những người cũng thích viết như ông hay ít ra cũng biết viết vài dòng hồi âm hay vài chữ để hỏi thăm nhau…

Hai hôm sau, có thêm một bà mang đến mấy trái cam để cám ơn ông đã viết thư cho chồng bà có vợ đầm ở Bỉ. Rồi cứ như vậy, vài hôm là có người đến cám ơn, cho quà, khi thì chai đậu phọng (Ở đây, sau khi rang, đậu được cho vào chai lít đầy tới miệng rồi đóng nút để giữ cho được dòn lâu. Người nghèo bản xứ hay ăn đậu phọng với bánh mì…) Khi thì mấy trái cà chua, vài bó rau cải… Có gì cho nấy, không nề hà! Ông già nhận hết, bởi vì ông thấy làm như vậy, người cho rất vui. Cái vui của họ được bộc lộ ra một cách rất thiệt thà: họ quay lưng bước đi, vừa vỗ tay thành nhịp vừa lắc lư nhún nhảy. Lần nào ông cũng nhìn theo, thấy cũng vui lây…

Vậy rồi không biết họ đồn với nhau thế nào mà khách hàng cứ đến nhờ ông viết. Những người cần làm đơn từ cũng đến nhờ ông! Bên anh đen đồng nghiệp thấy thưa khách. Ông già bèn đề nghị: "Tình trạng này kéo dài coi kỳ quá! Tôi đề nghị anh bạn như thế này: tôi lãnh viết thư nhà, anh lãnh viết đơn hành chánh. Mình cứ nói đơn hành chánh phải được đánh máy cho sạch sẽ dễ đọc thì các cơ quan mới mau chóng cứu xét. Anh đồng ý không?" Anh đen nhăn răng cười, bắt tay ông một cái đau điếng !

Từ đó, thấy khách đến, anh đen trịnh trọng nói : "Đơn từ thì ở bàn này. Thư cho thân nhân thì bước sang bàn ông bạn đồng nghiệp của tôi đây! " Lần hồi, khách hàng cũng quen nên cả hai người viết mướn cùng có việc làm đều đặn. Và càng ngày càng đông khách.

Một hôm, anh đen hỏi:

- Tôi cứ thắc mắc: làm sao viết thư mướn mà ông viết hay được như vậy?

- Tại anh không biết. Xưa nay tôi say mê viết. Tôi thích viết cho một người nào đó để giải bày, để chia sẻ những cảm nghĩ những suy tư của mình, chọn lời cho đúng, chọn câu cho hay…thú lắm !

Ông già ngừng nói, hít chầm chậm một hơi thuốc rồi chép miệng :

- Bây giờ tôi chẳng còn ai để mà viết. Bạn bè thì anh biết đó. Chúng nó cũng như người vừa đui vừa điếc, viết uổng công. Cho nên làm nghề viết mướn này, tôi có chỗ để viết. Tôi khổ cái khổ của khách hàng, tôi vui cái vui của khách hàng, tôi tâm sự cái tâm sự của khách hàng. Tôi viết với tất cả những xúc cảm chân thật đó,viết mà không nghĩ là mình viết mướn!

Anh đen vỗ tay đôm đốp, khen:

- Hay! Ông nói hay quá! Bây giờ tôi mới hiểu tại sao khách hàng mến mộ ông như vậy! Tổng Thống tụi tôi đem ông qua đây, đúng là "Ông Già" ổng có con mắt!

Rồi hắn cười hắc hắc làm ông già cũng bật cười theo. Cả hai, không người nào nhớ rằng mình da đen hay mình da vàng, họ chỉ biết họ là hai người viết mướn…

Hai năm sau…

Một hôm ông già bỗng thèm viết cho mấy thằng bạn hồi đó. Viết cho mỗi người một cái thư, lời lẽ y chang như nhau. Viết bức thư cuối cùng cho họ. Viết để cho họ thấy rằng ông phủi đít phủi tay, dứt khoát không còn bận bịu gì nữa với quá khứ, với lớp bụi đất đã ăn bám vào ông hồi thuở "vàng son".
Ông đốt điếu thuốc, suy nghĩ. Đại khái, ông sẽ viết:
"Thưa anh… gì gì (hay chị… gì gì)
Tôi viết thư này để báo tin cho anh… ( hay chị… ) mừng dùm cho cha con chúng tôi. Tụi này đã định cư luôn ở Côte d'Ivoire. Bây giờ, đời sống tụi này đã ổn định, cuộc sống tương đối khá. Hai con tôi có cửa hàng bán nem ở chợ Cocody, thiên hạ đến mua cũng đông. Còn tôi thì làm nghề viết mướn, khách hàng cũng nhiều. Được như vậy là nhờ ở xứ đen này, con người thấy đen nhưng lòng dạ của họ không đen chút nào hết. Chẳng bằng người Việt mình, nhiều người bề ngoài trắng trẻo lịch sự nhưng lòng của họ chẳng những đen mà còn bạc nữa, anh… ( hay chị…) có thấy như vậy không ?..."
Nghĩ đến đó, ông già bỗng cười khan một mình!

Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013

Bùi Giáng viết về thơ Tuệ Sỹ


Bùi Giáng viết về thơ Tuệ Sỹ


Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
tue-si.jpg

Tuệ Sỹ - Tác phẩm của Dominique de Miscault

Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tôi hoảng vía đề nghị : Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp : - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời
Hội cũ
Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? - Cung trời hội cũ.
Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du : "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?".
Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch!
Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?
"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?

0016002cx2d.jpg

Thi sĩ Bùi Giáng
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ?
Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.
Thy nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuyết nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :

Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Bùi Giáng

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013


TÊN TIỂU ĐỒNG TRÊN CÂY ĐÀO TIÊN 
Tác giả: Nguyễn Tường Bách

Ở cảnh giới nọ, có một tên tiểu đồng tử lai lịch không ai rõ. Dáng người y cục mịch. Hai bên trán, tóc để hình hai trái đào, ai thấy cũng thương mến, muốn xoa đầu.
Y suốt ngày rong chơi không chịu tu tập. Mỗi buổi sáng lúc chúng hội tụ tập nghe bồ tát giảng kinh, thuyết pháp, thì không ai thấy y đâu cả. Bồ tát dùng thiên nhãn sáng soi thường thấy y ngồi trên cây đào tiên hái trái.
Gần chốn vườn đào có một ngọn núi đá hoa cương.
Núi cao lớn hùng vĩ, đá hoa cương bóng ngời dưới ánh sáng, hòn núi toát ra một cương khí ngất trời. Cho dẫu là một tên đồng tử nghịch ngợm, không biết sợ là gì, y cũng chưa bao giờ dám leo lên núi.
Một ngày kia, bỗng có một lão trượng tới từ đâu không rõ, tay cầm một miếng vải nhung. Lão trượng thoăn thoắt leo lên núi, lấy khăn nhung chùi đỉnh núi một cái rồi leo xuống, điệu bộ dễ như trở bàn tay.
Tên đồng tử ngây người đứng nhìn, lòng vô cùng khâm phục. Y chạy tới vái chào hỏi han lão trượng, người đáp:
- Ta leo lên chùi núi đá để hiểu thế nào là "thời gian".
Lần đầu tiên nghe nói đến hai chữ "thời gian", đồng tử không hiểu là gì, lại càng không hiểu tại sao phải chùi núi đá mới hiểu được thời gian. Y đoán thầm đây là một phép tu khổ hạnh đặc biệt. Thấy lão trượng hiền từ, v hỏi tiếp:
- Tại sao chùi núi đá mới hiểu được thời gian?
- Trong kinh, Thích ca có nói về "thời gian, quá khứ, hiện tại, vị lai". Ta không hiểu thời gian là gì, và chúng hội ở đây cũng không ai biết. Đọc kinh sách ta biết rằng muốn hiểu thời gian là gì chỉ có một cách là mỗi lần hoa đào nở thì leo lên đỉnh, dùng miếng vải nhung này mà lau núi đá. Cứ như thế cho tới lúc núi đá mòn hết thì đó là một "tiểu kiếp". Cứ năm trăm "tiểu kiếp" là một "đại kiếp". Ta lau núi đá gần một đời mà xem ra chưa thấm vào đâu với một "tiểu kiếp". Mới hay thời gian là tuyệt đối vô cùng, vô tận.
Tên đồng tử nghe xong lắc đầu le lưỡi, tưởng tượng ngẫm nghĩ; cố gắng tới mấy y vẫn nghĩ không ra bao giờ núi mới mòn, càng không hiểu thời gian là gì.

*

Một hôm tên đồng tử ngồi trên cây đào nghe chúng hội đi phía dưới tụng đọc:
Đức Thế Tôn cao cả. Ba cõi chẳng ai bằng. Không hiểu "ba cõi" là gì nhưng sợ bị la mắng không lo tu học, y không dám hỏi chúng hội cũng chẳng hỏi han bồ tát, y đành nắm áo hỏi lão trượng:
- Tiểu đồng tử xin hỏi "ba cõi" là gì?
- "Ba cõi" chính là không gian vô cùng vô tận.
Tên đồng tử vẫn chưa hiểu:
- "Không gian" do đâu sinh?
- Đồng tử hỏi chuyện ngớ ngẩn, không gian có sẵn, không sinh không diệt.
Y vẫn không hiểu rõ lắm không gian là gì, chỉ biết đại khái không gian to lớn lắm.
Càng lớn, y càng ham chơi không chịu tu học.
Ngồi tham thiền, y thấy đau lưng, kinh văn thì khó hiểu, tụng đọc càng mau chán.
Một ngày kia, y khám phá ra trên cây đào tiên một trái đào đỏ chín to lớn chưa từng thấy. Y vội hái trái đào, nhưng trước khi ăn, y cẩn thận bẻ trái đào ra.
Trong ruột trái đào bỗng bò ra một đàn kiến. Y đang mừng suýt phải ăn nhằm kiến, bỗng nghe tiếng ai nói:
- Chư huynh đệ, đây là đâu?
Đồng tử ngơ ngẩn nhìn quanh, không thấy ai cả.
Y nhìn lại thì mới phát hiện ra là kiến biết nói. Y khoái chí nhìn đàn kiến, lắng nghe chúng nói chuyện.
Mấy tên kiến nhìn quanh quẩn, bỗng một tên cất tiếng nói:
- Chưa biết đây là đâu nhưng rõ ràng chúng ta đã tự giải thoát khỏi cảnh giới loài kiến chúng ta.
Tên đồng tử cười thầm "Ruột trái đào mà cũng gọi là cảnh giới, nghe đúng giọng các tên mọt sách".
Một tên kiến khác lên tiếng:
- Chúng ta tu dưỡng đã lâu, nay vừa tới ngày đắc đạo.
Đồng tử muốn cười thành tiếng "Nếu ta không bẻ trái đào ra thì chúng bay đã nằm trong bụng ta rồi, liệu còn đắc đạo nữa ư?".
Một tên kiến khác từ nãy giờ trầm ngâm chưa nói, bây giờ mới lên tiếng:
- Chúng ta tu học biết bao nhiêu kiếp, kể ra cũng vài trăm năm chứ không vừa.
Nghe tới đây tiểu đồng tử nhớ lão trượng và "tiểu kiếp" của lão vô cùng. Y không hiểu "vài trăm năm" là gì, nhưng nghe ra có vẻ lâu đài lắm. Nhưng đào này cũng mới kết trái đây thôi thì có gì là lâu?
Bỗng một tên kiến quay đầu nhìn một tên khác, hỏi:
- Đại sư huynh, phong cảnh thế giới này hình như có gì hơi khác.
Tên kiến này được gọi là "đại sư huynh" nhưng thân hình y lại nhỏ con nhất trong bọn, trước giờ chưa nói tiếng nào, râu ngo ngoe mấy cái rồi phán:
- Ta ngờ rằng chúng ta đã qua một không gian khác, khác với không gian loài kiến của chúng ta.
Đồng tử lại cười thầm "Từ ruột trái đào chui ra thì tất nhiên là khác rồi, có gì mà ngờ với không ngờ.
Tên kiến sư huynh nói tiếp:
- Không gian tùy theo nghiệp của chúng sinh mà sinh diệt. Loài kiến chúng ta là một loài sống trên mặt phẳng, nên không gian chúng ta là mặt phẳng, không gian chúng ta chỉ có hai chiều, bề ngang và bề dọc.
Nghe tới đây, tên đồng tử tự nhủ "Ruột trái đào thì tròn, nhưng các tên kiến quá nhỏ nên chúng cứ tưởng sống trên mặt phẳng, ha ha". Đàn kiến yên lặng nghe sư huynh của chúng giảng tiếp:
- Vì vậy chúng ta không thể tưởng tượng ra và cảm nhận được các loại không gian khác nhiều chiều hơn. Trong kinh sách có nói về không gian của một loài tên gọi là "loài người". Không gian của các vị ấy có tới ba chiều. Ngoài chiều ngang và chiều dọc như của chúng ta, họ còn một chiều nữa gọi là "chiều cao".
Thời gian và không gian của loài người khác hẳn thời gian và không gian của chúng ta. Thân thể họ lớn gấp muôn lần thân thể chúng ta, thọ mạng họ cũng dài gấp muôn lần đời sống chúng ta.
Lần đầu tiên nghe nói đến hai từ "loài người", nên tên đồng tử chú ý lắm.
Đàn kiến ngơ ngẩn không tưởng tượng ra nổi làm sao có ai lớn gấp muôn lần thân thể chúng và sống được lâu dài như vậy, nhất là chúng không sao nghĩ ra được chiều thứ ba. Có tên có vẻ không tin lắm những gì sư huynh chúng nói, cất tiếng:
- Thật tiểu đệ cố gắng hết sức rồi mà không nghĩ ra chiều thứ ba chạy hướng nào. Chiều hướng nào ra cũng qui lại trên hai chiều ngang dọc cả. Theo ngu ý của tiểu đệ thì không gian không thể có chiều thứ ba.
Tên kiến này nói "ngu ý"' nhưng giọng điệu y nghe rất tự tin, y vốn là nhà toán học trong đàn kiến.
Tên kiến sư huynh vẫn kiên nhẫn:
- Tâm sanh ra thân nhưng rồi tâm lại bị thân trói buộc. Thân kiến của chúng ta là loại thân chỉ bò trên mặt phẳng nên tâm cũng chỉ cảm nhận được hai chiều.
Thì cũng tương tự như thế, loài người họ cũng không thể tưởng tượng ra được không gian có thể có bốn chiều hoặc nhiều hơn vì thân họ thuộc loại sống trong không gian ba chiều.
Bỗng một tên kiến cất tiếng hỏi:
- Sư huynh nói chúng ta "cảm nhận" không gian hai chiều thôi chứ thực sự không phải như thế, thì tiểu đệ xin hỏi không gian tự nó như thế nào?
Tên kiến này nhấn mạnh hai chữ "tự nó". Tên đồng tử cười thầm. Y nhớ rằng đã hỏi lão trượng, không gian do đâu sinh và thầm nhủ "Tên kiến này hỏi một câu có vẻ được đây!". Kiến sư huynh ngo ngoe râu mấy cái rồi đáp:
- Không gian do "không" sinh ra: "Không" này là "không" bát nhã, trong "không tức thị sắc, sắc tức thị không" mà chư đệ hay tụng đọc đó.
Tên đồng tử nghe nói lắc đầu "Thì ra loài kiến nhãi nhép này cũng tụng đọc một thứ kinh sách như chúng hội thường đọc".
Thấy các tên sư đệ chưa hiểu, kiến sư huynh tiếp:
- Trong "không" chứa sắc, chứa cả tâm lẫn vật.Tâm tùy nghiệp lực mà sinh ra thân vật chất rồi thân cảm nhận ra một không gian xung quanh mình. Không gian đó phù hợp với tính chất của thân vật chất.
Đồng tử nhớ lão trượng nói không gian "có sẵn", bây giờ lại nghe tên kiến sư huynh này nói không gian do tâm thân dựa lên nhau mà có, y cảm thấy phân vân. Tất nhiên y tin lão trượng hơn tin loài ong kiến, nhưng nghe tên kiến sư huynh này lý giải, văn phong khẩu khí có vẻ giống giọng bồ tát, y cũng có phần nể nang, không biết làm sao.
Một tên kiến khác cất tiếng hỏi:
- Như thế khi chư Phật không còn thân vật chất nữa thì không gian cũng diệt theo luôn hay sao. Niết bàn như thế chỉ là một cảnh giới hư vô đâu còn gì thú vị!
Đồng tử nghe nói câu này lấy làm hợp ý vô cùng.
Tên kiến sư huynh bác ngay:
- Danh tự của loài kiến chúng ta cũng như của mọi loài vốn là phương tiện của thân bày ra nên danh tự không thể diễn đạt những gì nằm ngoài phạm vi của thân. Như loài tôm cá sống trong nước, chúng không thể hiểu được đời sống trên đất liền như chúng ta. Bởi vậy không thể dùng danh tự thông thường để mô tả niết bàn. Ở đây nói sao cũng mê cả, không phải là ngộ.
Đàn kiến nghe tới dây có vẻ hoang mang cực độ, tên kiến sư huynh nói tự giọng ân cần an ủi:
- Loài kiến chúng ta bị trói buộc trong thế giới hai chiều nên không hiểu các cảnh giới khác. Không gian thời gian mỗi cảnh giới khác nhau vô cùng vô tận, nhưng tâm lại đồng một thể. Như nước có khi ở dạng lỏng, có khi ở dạng băng tuyết, khi thành hơi sương, nhưng chỉ là một chất nước. Cũng thế, các loài trong thế giới khác nhau vì hạnh nghiệp của chúng, nhưng cùng một thể. Cho nên tâm phật và tâm loài kiến chúng ta cũng đều là một.
Nghe tới đây đàn kiến cực kỳ phấn khởi.
Tên đồng tử bỗng thấy một mùi thơm hết sức quyến rũ. Y quay lại, thì ra một trái đào đỏ mọng, thơm ngon chưa từng thấy. Y liền vươn tay bẻ trái đào Vừa cầm trái đào trong tay, bỗng nghe "rắc" một tiếng, cành đào dưới chân y gãy đôi, y ngã lộn nhào xuống gốc cây, mê man bất tỉnh.
Chúng hội đang nghe giảng kinh, bỗng thấy bồ tát mỉm cười khó hiểu.
*

Lúc tên đồng tử ngã xuống gốc cây, tại thế giới mà tên kiến sư huynh gọi là "thế giới loài người" đang trải qua những ngày hè nóng nực của năm 1878.
Mùa xuân năm sau, một đứa bé mở mắt chào đời, mặt mày bầu bĩnh. Cậu bé càng lớn càng không thích học hành, suốt ngày rong chơi. Đến khoảng 15 tuổi y bị nhà trường đuổi học vì lý do "sự hiện diện của y chỉ làm phiền nhà trường và làm cho học sinh mất hết sự kính trọng đối với thầy cô".
Hơn mười một năm sau, cậu học trò ngỗ nghịch đó được cả thế giới biết tới tên tuổi. Lúc đó tuổi mới 27, tên y là Albert Einstein (l).
Lúc mở mắt tỉnh dậy thì đồng tử vẫn còn thấy mình nằm dưới gốc đào tiên. Y ngơ ngác nhìn quanh thì thấy lão trượng, lão mừng rỡ lên tiếng:
- Ngươi đã tỉnh dậy rồi ư? Ngươi bị ngã trên cây xuống mê man bất tỉnh đã hơn ba ngày làm ta rất lo lắng!
Tên đồng tử nhớ lại điều gì, đáp:
- Thưa lão trượng, tiểu đồng tử thì ra đã rời cảnh giới này đi sống một thế giới khác. Ở đây ba ngày mà ở đó dài gần trăm năm.
Lão trượng ngạc nhiên hỏi:
- Thế ư, ngươi còn nhớ đã đi đến đâu không?
- Tiểu đồng tử lần đầu tiên mới biết thế giới loài người.
Lão trượng kinh ngạc, lẩm bẩm:
- Thế ư, thì ra ngươi cũng đã đến đó rồi ư.
Nghe thế, đồng tử ngạc nhiên:
- Lão trượng cũng đã từng làm người hay sao?
- Ha ha, dòng dõi cũng như sự nghiệp của ta trong giới loài người phải kể vào hàng danh gia vọng tộc. Tên ta, loài người gọi là Isaac Newton (2).
Tên đồng tử nhớ ra điều gì, y nhìn lão trượng đang cầm chiếc khăn nhung trong tay, ôm bụng cười ha hả.
Chúng hội đang nghe giảng kinh, nhíu mày thầm trách tên tiểu đồng làm ồn. Bồ tát lại mỉm cười khó hiểu.
Dưới tòa sen, một đàn kiến vừa bò ngang, râu ngo ngoe.


Ghi chú:
(1) Einstein (1879-1955), giải Nobel 1921, được xem là thiên tài của ngành vật lý trong thế kỷ này. Với "thuyết tương đối đặc biệt", ông đã chứng minh rằng thời gian và không gian phụ thuộc vào trạng thái di chuyển của vật chất. "Thuyết tương đối tổng quát" đã chứng minh sự hiện hữu của vật chất đã làm "co giãn" thời gian, "méo mó" không gian. Nhờ Einstein, ngày nay người ta biết rằng chính vật chất và sự vận động của nó đã phát sinh ra thời gian và không gian. Thời gian và không gian là "thuộc tính", là "phát biểu" của vật chất. Không có một sân khấu bất di bất dịch mà chính là diễn viên ở đâu thì chỗ đó có sân khấu. Không có diễn viên thì cũng không có sân khấu.
(2) Newton (1643-1727) được xem là người mở đường cho nền cơ học của loài người. Là một bá tước người Anh, ông đã thống nhất công trình của Kepler, Galilei, Guericke trong một hệ thống cơ học vững chắc và hoàn chỉnh. Ông cũng là người phát biểu nguyên lý của động lực học và nguyên lý hấp dẫn của trường trọng lực. Trong hệ thống cơ học này, Newton xem không gian và thời gian là tuyệt đối, cố định, liên tục. Vật chất vận động trong không gian cũng như diễn viên trình diễn trên một sân khấu có sẵn. Sân khấu lúc nào cũng tồn tại, độc lập với diễn viên.

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Câu đối cho chùa Dưỡng Mông


Câu đối cho chùa Dưỡng Mông



1. 極  樂  于  心, 應  學  禪  門  佛  法
      涅  槃  在  世, 莫  尋  兔  角  龜  毛.

Âm:    Cực lạc vu tâm, ưng học thiền môn phật pháp
           Niết bàn tại thế, mạc tầm thố giác qui mao.

Nghĩa: Cực lạc ở tâm mình, nên học phép phật, giáo lý thiền
           Niết bàn tại cõi này, chớ tìm lông rùa sừng thỏ

2. 養  正   凡  心,  道  本  日  堅   心  日  亮
       蒙  行  妙  法,  慧  根   邊  盛  法   邊  深

Âm:   Dưỡng chính phàm tâm, đạo bổn nhật kiên tâm nhật lượng;
Mông hành diệu pháp, tuệ căn biên thạnh pháp biên thâm.

Nghĩa:
Ra sức chánh cái tâm phàm (bằng bát chánh đạo) thì gốc đạo ngày càng bền mà tâm ngày càng sáng.
          Bền bĩ thực hành các pháp diệu kỳ (tứ diệu đế) nên rễ tuệ càng phát triển mà các pháp càng thâm sâu.

3.  法  以  筏, 渡  過  須  忘  真  覺  悟
        色  如  空, 了  知  必  證  好  因  緣.

Âm:  Pháp dĩ phiệt, độ quá tu vong chân giác ngộ
         Sắc như không, liễu tri tất chứng hảo nhân duyên. 

Nghĩa: Pháp là bè, qua rồi thì bỏ hết, mới là giác ngộ thật sự
           Sắc là không, hiểu ra tất chứng đạo, đúng là nhân duyên tốt lành.



4.    鄉  里  響  禪  鐘, 遍  地  暮  朝  霑  法  雨
寺  臺  煇  佛  日, 滿  心  晝  夜  暖  慈  風.

Âm:   Hương lý hưởng thiền chung, biến địa mộ triêu triêm pháp vũ
Tự đài huy phật nhật, mãn tâm trú dạ noãn từ phong.

Nghĩa: Thôn làng vang tiếng chuông chùa, sáng chiều mưa pháp ướt đầm khắp chốn
          Chùa đài sáng ngời mặt trời phật, ngày đêm gió từ thổi ấm cả lòng.

5.  行 四  愿, 處  六  和, 世  常  心  樂
        受 三  皈, 持  五  戒, 生  上  身  安.

Âm:    Hành tứ nguyện, xử lục hòa, thế thường tâm lạc
 Thọ tam quy, trì ngũ giới, sinh thượng thân an.

Nghĩa: Thực hành tứ nguyện, sống theo lục hòa, tâm sẽ vui vẻ suốt đời
           Thọ tam quy, giữ ngũ giới, thân thể sẽ bình yên trong cuộc sống.

6.     ,
      , .

Âm:    Nguyện học thiền môn, khắc khắc thủ tam thường bất túc.
          Dục cầu trí huệ, thời thời quan nhất thiết giai không.

Nghĩa: Muốn học đạo Phật, mọi khắc phải giữ tam thường (ăn, ngủ, mặc) không đầy đủ
          Mong cầu có trí huệ, luôn luôn phải xem tất cả là không.






4. 鄉  里  響  禪  鐘 遍  地  暮  朝  霑  法  雨
寺  臺  煇  佛  日 滿  心  晝  夜  暖  慈  風
5.  行 四  愿 處 六 
世 常 心 樂
受  三
 皈 持  五  戒 生  上
 身  安

6.  ,
,
    

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

Đạo pháp của Đức Phật có phải là tôn giáo?


Đạo pháp của Đức Phật có phải là tôn giáo?


HOANG PHONG



Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật. Người thì cho rằng Đạo pháp – Dharma – do Đức Phật thuyết giảng là một tôn giáo, kẻ lại cho đấy là triết học, có người xem Đạo pháp là một nền luân lý, thế nhưng cũng có người quả quyết Đạo pháp của Đức Phật là một khoa học tâm linh. Thật ra thì không có nhãn hiệu nào hàm chứa đầy đủ ý nghĩa để biểu trưng cho Đạo pháp một cách trung thực.
Thật vậy, dù đã tu tập và thấm nhuần Đạo pháp từ hàng nghìn năm thế nhưng các dân tộc Á châu tuyệt nhiên không hề thắc mắc đấy là ton giáo, triết học, luận lý hay khoa học… Chữ “Phật giáo” (Bouddhisme-Buddhism) là một thuật ngữ hoàn toàn mới mẻ mang ý nghĩa ngoại lai và vay mươn, do người Tây phương đặt ra vào khoảng năm 1825, bằng cách ghép thêm chữ isme-ism vào chữ Bouddha – Buddha tên của Đức Phật để tạo ra từBouddh-isme – Buddh-ism khi “Phật giáo” bắt đầu thâm nhập và bành trướng tại Âu châu. Vì thế, để chỉ giáo lý của Đức Phật, ở đây xin được dùng chữ Đạo pháp – tiếng Phạn là Dharma – thay vì chữ “Phật Giáo”. Thật ra chữ Dharma cũng là chữ mà các học giả Tây phương lỗi lạc nhất về “Phật giáo” sử dụng từ lâu nay để nói về giáo lý của Đức Phật, vì họ đều ý thức được ý nghĩa hạn hẹp và lệch lạc của chữ “giáo” (isme – ism) vốn có nguồn gốc văn hóa phương Tây.
Bài viết này sẽ phân tích và tìm hiểu xem Đạo pháp có phải là một tôn giáo hay không.
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu xem chữ “giáo” hay “tôn giáo” tức là ”ism” mang ý nghĩa như thế nào. Chữism (isme) xuất phát từ chữ ismo trong cổ ngữ Hy-lạp, và sau đó thì ismo trở thành ismus khi chuyển sang tiếng La-tinh. Chữ ism (tiếng Anh), chữ isme (tiếng Pháp) được sử dụng trong ba trường hợp sau:

1- Chỉ định một giáo lý hay chủ nghĩa, một giáo điều hay một luận thuyết, thí dụ như: communism (chủ nghĩa cộng sản, giáo điều cộng sản), hedonism (chủ nghĩa hoan lạc), darwinism (luận thuyết darwin)…

2- Chỉ định một phẩm chất hay một thể dạng nào đó, thí dụ như: anachronism (tình trạng lỗi thời), professionalism (tính cách nhà nghề)…

3- Chỉ một cách cư xử hay một bệnh lý, thí dụ như: narcissisism (tính cách trau chuốt chính mình), somnambulism (bệnh mộng du hay miên hành).

Như vậy trên phương diện thuần túy ngữ học thì chữ ism mà người Tây phương ghép thêm vào tên của Đức Phật có phản ánh được chữ Dharma hay không? Nếu hiểu chữ ism là một thứ “giáo điều” hay “giáo lý” thì cũng nên xem ý nghĩa của nó có phù hợp với ý nghĩa của chữ Dharma tức là Đạo pháp hay không?
Chữ “giáo” hay “ism” tương đương và đồng nghĩa với chữ religio trong tiếng La-tinh. Chữ religio phát sinh vào thời cổ đại (thế kỷ thứ III-II trước Tây lịch) thuộc nền văn minh La-Mã, thế nhưng ý nghĩa không được rõ rệt. Bước sang thời hậu cổ đại, một nhà lãnh đạo chính trị và học giả người La-Mã là Marcus Tullius Cicero (thế kỷ thứ I trước Tây lịch) mới định nghĩa chữ religio là “hành động hướng vào một cái gì tối thượng mà người ta cho là thiêng liêng và phải tôn thờ”. Kể từ đó chữ religio chỉ định sự tương quan giữa con người và Thượng đế. Chữ dîn trong kinh Coran / Koran của hồi giáo mang ý nghĩa là “những lời chỉ thị” của Trời (Allah), do đó cũng có thể xem như đồng nghĩa với chữ religio trong tiếng La-tinh.
Nhìn vào các nền văn hóa Á châu người ta không thấy có thuật ngữ nào tương đương với từ religio. Mãi đến đầu thế kỷ XX, người Trung hoa mới dùng chữ zōng jiào ( ) để dịch chữ religio. Jiào (giáo) có nghĩa là lời giảng hay lời dạy, zōng (tông) có nghĩa là tông phái hay những gì thuộc về tổ tiên. Thật ra thì hai chữ zōng jiào đã có từ thế kỷ thứ X dưới dạng ghép chung vào nhau thành một chữ duy nhất để chỉ giáo huấn của Đức Phật. Tóm lại trong cả hai trường hợp chữ tôn giáo hay tông giáo (zōng jiào) không tượng trưng cho sự tương quan giữa con người và Thượng đế đúng với ý nghĩa của chữ religio trong ngôn ngữ Tây phương.
Chữ tôn giáo (religio) lại mang ẩn ý nói lên lòng  tin tưởng vào sự hiện hữu của một vị Trời (Chúa Trời, Thượng để, Allah…) đã sáng tạo ra thế giới và con người. Do đó thuật ngữ “tôn giáo” nhất thiết dùng để giải thích “các hiện tượng bên ngoài” mà con người phải chịu đựng mà nhất là phải ngoan ngoãn “thích ứng” với những hiện tượng đó. Muốn được “cứu rỗi” phải thực hiện được sự “giao tiếp” với vị Trời của mình và phải tuân thủ các “giáo điều” bất di bất dịch của vị ấy “đưa ra”.
Trong khi đó Dharma của Đức Phật trước hết nêu lên “cách nhìn định hướng vào bên trong”của mỗi cá thể con người để tự cải thiện lấy chính mình, sau đó là “cách nhìn vào thế giới chung quanh” để quán nhận bản thể đích thực của mọi hiện tượng hầu ý thức bổn phận của chính mình đối với người khác và môi trường thiên nhiên. Mỗi con người phải gánh chịu hậu quả khổ đau phát sinh từ những ảo giác do chính mình tạo ra, và chính mỗi con người cũng phải tự giải thoát cho mình khỏi các ảo giác ấy dựa vào Đạo pháp như một phương tiện. Vậy Đạo pháp của Đức Phật trước hết là một phương tiện giúp cho con người tự tu tập loại bỏ mọi ảo giác và theo cách hiểu đó thì Đạo pháp – Dharma – không phải là một “tôn giáo” theo ý nghĩa của chữ religio trong ngôn ngữ Tây phương. Có lẽ chúng ta cần phải tìm ra một chữ khác chẳng hạn như chữ tín ngưỡng để “dịch” chữ religio trong tiếng La-tinh để gọi các tôn giáo “hữu thần”.
Thế nhưng “Phật giáo” dưới một vài khía cạnh nào đó lại rất giống như một “tôn giáo” vì “Phật giáo” cũng chủ trương sự sùng kính, nghi lễ, kinh kệ, có chùa chiền, tượng ảnh và “Phật giáo” cũng có “đức tin”…
Trước hết các nghi lễ trong “Phật giáo” tượng trưng cho sự sùng kính và tưởng nhớ đến Đức Phật như một vị Thầy tối thượng. Các hình thức lễ lạt như nhang đèn, hương hoa, lễ vật… là phương tiện để thể hiện và cụ thể hóa lòng yêu thương của người Phật tử đối với vị thầy của mình, không phải là một hình thức “mua chuộc” ân huệ. Trên một khía cạnh khác, các hình thức lễ lạc cũng tượng trưng cho những “phương tiện thiện xảo” (tiếng Phạn: upaya) giúp vào việc tu tập. Thật vậy, lễ lạc, tụng niệm cũng có thể xem như một phương tiện thiền định. Vai trò của chùa chiền, tượng ảnh… cũng nhầm vào mục đích đó tức “thay mặt” cho Đạo pháp nhắc nhở và khích lệ chúng ta.
Kế đến thì “đức tin” trong “Phật giáo” không phải là một đức tin mù quáng bất chấp sự thật mà đúng hơn chỉ là sự tin tưởng vững chắc vào Dharma tức những lời giáo huấn của Đức Phật. Xin tóm lược một câu phát biểu rất nổi tiếng của Đức Phật như sau:”Phải nghi ngờ tất cả, không nên tin vào những lời thuyết giảng của Ta. Hãy xét đoán những lời ấy bằng kinh nghiệm trực tiếp của mình, cũng như người thợ kim hoàn đem vàng ra để thử bằng cách nung , cắt, và đập…”. Các lời giảng của Đức Phật đã được các đệ tử của Ngài và các vị đại sư trên dòng lịch sử phát triển của Đạo pháp mang ra thử nghiệm và chứng thực. Đức Đạt-lai Lạt-ma chẳng phải là một nhân chứng và một tấm gương cho nhân loại noi theo hay sao?
Tóm lại, Đức Phật không phải là một nhân vật toàn năng để chúng ta cầu khẩn mà đúng hơn là một tấm gương cho chúng ta nhìn vào. Tuy Đạo pháp – Dharma – của Đức Phật mang một sắc thái khá tương tợ với một tôn giáo, thế nhưng nếu muốn gọi Đạo pháp của Đức Phật là một “tôn giáo” thì chữ này phải mang ý nghĩa của chữ zōng jiào ( ), chứ không phải là một “tôn giáo” theo ý nghĩa Tây phương của chữ religio. ■


Tác giả/ dịch giả Nguyễn Đức Tiến, bút hiệu: Hoang Phong, Tiến sỹ khoa học, sinh năm 1939, là hội viên Hội Thiền Học Quốc tế AZI (Association Zen Internationale), cựu Giảng sư Đại học Khoa Học Saigon, và cựu Địa chất gia và Kỹ sư tầm khỏa công ty dầu khí TOTAL. Ông về hưu năm 1999, và hiện định cư tại Pháp quốc.


 .

(Hoang Phong)